Bài của Anh Cả D. Todd Christofferson thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ của Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Giê Su Ky Tô
Chúng ta làm chứng cùng thế giới rằng thánh chức tư tế của Thượng Đế là thiết yếu trong việc thực hiện công việc cứu rỗi và tôn cao của Ngài, rằng Ngài đã phục hồi chức tư tế trên thế gian vì mục đích đó và chức tư tế được thực hiện bởi Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Giê Su Ky Tô.
Sự Cần Thiết của Thẩm Quyền và Quyền Năng Chức Tư Tế
Chúa Giê Su Ky Tô đứng đầu Giáo Hội. Giáo Hội là công cụ mà Ngài đã tạo ra để thực hiện công việc thiết yếu nhằm cứu chuộc nhân loại trong gian kỳ phúc âm sau cùng này cũng giống như trong gian kỳ khi Ngài sống trên thế gian. Qua Giáo Hội:
- Ngài có thể rao truyền phúc âm của Ngài trên khắp thế gian.
- Ngài có thể ban cho phép báp têm và tất cả các giao ước khác—thậm chí là con đường giao ước dẫn đến vương quốc thượng thiên của Ngài.
- Ngài có thể kết hợp các gia đình cho thời vĩnh cửu.
- Ngài có thể ban cho các ân tứ cứu rỗi, ngay cả cho những người đã chết mà không có các ân tứ đó.
- Ngài có thể phục sự cho những nhu cầu vật chất của con cái Thượng Đế trong thời hiện tại.
Để thực hiện các mục đích trọng đại này và để chuẩn bị cho sự trở lại của Đấng Cứu Rỗi, Giáo Hội cần sự hướng dẫn, thẩm quyền và quyền năng liên tục của Thượng Đế. Giáo Hội là “giáo hội chân chính và sinh động” (Giáo Lý và Giao Ước 1:30) bởi vì Đấng Ky Tô ban cho giáo hội sự lãnh đạo và quyền năng của Ngài qua chức tư tế của Ngài, “Thánh Chức Tư Tế theo Ban của Vị Nam Tử của Thượng Đế” (Giáo Lý và Giao Ước 107:3).
Nếu không có thánh chức tư tế này, thì về cơ bản, Giáo Hội sẽ chỉ là một tổ chức thế tục, làm việc thiện trên thế gian nhưng không có quyền năng để đạt được mục đích tột bậc là chuẩn bị các con trai và con gái của Thượng Đế cho niềm vui của cuộc sống vĩnh cửu nơi hiện diện của Ngài. Với chức tư tế này và các chìa khóa để hướng dẫn công việc của chức tư tế này, thì có cả thẩm quyền lẫn trật tự trong Giáo Hội.
“Trong Giáo Hội, mọi thẩm quyền của chức tư tế đều được sử dụng dưới sự hướng dẫn của những người nắm giữ các chìa khóa của chức tư tế.
“Các nam tín hữu xứng đáng của Giáo Hội nhận được thẩm quyền của chức tư tế qua sự truyền giao và sắc phong các chức phẩm của chức tư tế. Tất cả các tín hữu của Giáo Hội có thể sử dụng thẩm quyền đã được giao phó khi họ được phong nhiệm hoặc được chỉ định để giúp thực hiện công việc của Thượng Đế.”
Qua các chìa khóa của chức tư tế, các ưu tiên của Chúa sẽ luôn luôn chiếm ưu thế. Không một ai có thể ủng hộ các ý kiến cá nhân mà không phù hợp với sự hướng dẫn của Ngài. Không một ai có thể thành công trong mưu chước tăng tế, tìm kiếm lợi lộc cá nhân và một nhóm tín đồ riêng.
Chức tư tế cũng đóng một vai trò thiết yếu trong nhà của các tín hữu Giáo Hội. Chủ Tịch Dallin H. Oaks, Đệ Nhất Cố Vấn trong Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn, đã dạy: “Nguyên tắc rằng thẩm quyền của chức tư tế chỉ có thể được sử dụng dưới sự hướng dẫn của một người nắm giữ các chìa khóa cho chức năng đó là nền tảng trong Giáo Hội, nhưng điều này không áp dụng trong gia đình.” Người cha chủ tọa và sử dụng chức tư tế trong gia đình mình—khuyên bảo, tổ chức các buổi họp gia đình, ban các phước lành chức tư tế hoặc phước lành chữa lành cho những người trong gia đình hoặc những người khác, và vân vân—mà không cần có sự hướng dẫn hoặc cho phép của người nắm giữ các chìa khóa chức tư tế.
“Cùng một nguyên tắc như vậy được áp dụng khi người cha vắng mặt và người mẹ là người lãnh đạo gia đình. [Người mẹ ấy] chủ tọa trong nhà và là công cụ trong việc mang quyền năng và các phước lành của chức tư tế vào trong gia đình mình qua lễ thiên ân và lễ gắn bó của mình trong đền thờ.”
Sự Phục Hồi Chức Tư Tế trong Thời Kỳ Chúng Ta
Ngày 15 tháng Năm năm 1829
Sự phục hồi thẩm quyền của chức tư tế trong gian kỳ sau cùng này diễn ra theo thứ tự từng bước một. Là thánh thư cơ bản cho gian kỳ của chúng ta, Sách Mặc Môn, được phiên dịch vào năm 1829, Chúa bắt đầu thiết lập cấu trúc chức tư tế của Ngài. Để đáp ứng câu hỏi thành tâm của Joseph Smith và Oliver Cowdery về phép báp têm, Giăng Báp Tít phục sinh đã hiện đến và truyền giao cho họ Chức Tư Tế A Rôn, là chức tư tế “nắm giữ các chìa khóa phù trợ của các thiên sứ và của phúc âm về sự hối cải, và của phép báp têm bằng cách được dìm mình xuống nước để được xá miễn tội lỗi” (Giáo Lý và Giao Ước 13:1). Với thẩm quyền đó, Joseph và Oliver đã làm phép báp têm cho nhau và về sau cho những người khác khi Giáo Hội được chính thức tổ chức.
Không lâu sau ngày 15 tháng Năm năm 1829
Chẳng bao lâu sau khi Giăng Báp Tít hiện đến, Các Sứ Đồ thời xưa là Phi E Rơ, Gia Cơ và Giăng cũng hiện đến và truyền giao chức tư tế cao hơn, hay Mên Chi Xê Đéc, kể cả “các chìa khóa của vương quốc của ta cùng gian kỳ phúc âm cho … thời kỳ trọn vẹn” (Giáo Lý và Giao Ước 27:13; xin xem thêm 128:20).
Ngày 3 tháng Tư năm 1836
Tiếp theo là cần thêm thẩm quyền chức tư tế khi ba vị tiên tri thời xưa là Môi Se, Ê Li A và Ê Li hiện đến cùng Joseph và Oliver trong Đền Thờ Kirtland và trao cho họ các chìa khóa về sự quy tụ dân Y Sơ Ra Ên và về công việc liên quan đến đền thờ của Chúa (xin xem Giáo Lý và Giao Ước 110:11–16).
Mùa hè năm 1829 đến tháng Tư năm 1835
Những điều mặc khải hiện được chấp nhận là thánh thư trong Giáo Lý và Giao Ước đã chỉ dẫn cho Tiên Tri Joseph Smith việc sắc phong những người nam vào các chức phẩm của chức tư tế cao hơn (Mên Chi Xê Đéc) và chức tư tế dự bị (A Rôn); sự chỉ định các chức sắc chức tư tế, chẳng hạn như giám trợ; và việc tổ chức các nhóm túc số và hội đồng chức tư tế.
Từ năm 1835 đến năm 1973
Sự hướng dẫn của vị tiên tri tiếp tục hướng dẫn sự tổ chức và chức năng của chức tư tế trong Giáo Hội. Ví dụ, các nhóm túc số Các Thầy Bảy Mươi được tổ chức trong thời đại Kirtland để phụ giúp Nhóm Túc Số Mười Hai. Sau cuộc đại di cư về miền Tây và sự phân tán của các tín hữu Giáo Hội ở khắp các khu vực địa lý rộng lớn, các nhóm túc số này được chỉ định thực hiện chức năng trong các giáo khu của Giáo Hội.
Từ năm 1973 cho đến nay
Dưới sự điều hành của các Chủ Tịch Spencer W. Kimball (1895–1985), Ezra Taft Benson (1899–1994) và Gordon B. Hinckley (1910–2008), Các Thầy Bảy Mươi và các nhóm túc số của họ bắt đầu thi hành chức năng trực tiếp dưới quyền của Nhóm Túc Số Mười Hai ở cấp trung ương Giáo Hội và trong các giáo vùng của Giáo Hội. Sau đó, các nhóm túc số ở cấp giáo khu đã được đình chỉ. Ngày nay, mười hai nhóm túc số Các Vị Thẩm Quyền Trung Ương và Các Thầy Bảy Mươi Có Thẩm Quyền Giáo Vùng phụ giúp Các Sứ Đồ “trong việc xây dựng giáo hội và điều hành tất cả mọi công việc của giáo hội trong khắp các quốc gia” (Giáo Lý và Giao Ước 107:34). Có thể thành lập thêm các nhóm túc số Thầy Bảy Mươi khi Giáo Hội phát triển.
Chức Tư Tế: Quyền Năng để Ban Phước
Nói tóm lại, mục đích của thẩm quyền và quyền năng chức tư tế mà Chúa Giê Su Ky Tô đã phục hồi là để ban phước. Thẩm quyền này cho phép các tín hữu Giáo Hội sử dụng quyền năng của Thượng Đế trong việc phục vụ và ban phước cho những người khác trong Giáo Hội, ở nhà và trên khắp thế giới. Các tín hữu cùng với Đấng Cứu Rỗi thực hiện công việc cứu rỗi và tôn cao của Ngài, sử dụng các ân tứ và quyền năng thiêng liêng vượt xa hơn khả năng của chính họ để giúp vương quốc của Thượng Đế phát triển và tràn ngập thế gian (xin xem Giáo Lý và Giao Ước 65:2, 5–6).
Chúa đã giải thích rằng “chức tư tế cao hơn này [Mên Chi Xê Đéc] điều hành phúc âm và nắm giữ chìa khóa về những điều kín nhiệm của vương quốc, tức là chìa khóa của sự hiểu biết về Thượng Đế.
“Vậy nên, trong các giáo lễ thuộc chức tư tế này, quyền năng của sự tin kính được biểu hiện rõ rệt.
“Và nếu không có những giáo lễ thuộc chức tư tế này cùng thẩm quyền của chức tư tế, thì quyền năng của sự tin kính không được biểu hiện cho loài người trong thể xác biết được” (Giáo Lý và Giao Ước 84:19–21).
Dĩ nhiên, các giáo lễ là các nghi lễ hoặc Tiệc Thánh do chức tư tế thực hiện mà qua đó chúng ta lập giao ước với Thượng Đế, bắt đầu bằng phép báp têm và tiếp tục qua các giao ước nhận được trong nhà của Chúa. Chính là qua việc tuân giữ các giao ước này mà chúng ta được biến đổi từ những người nam và người nữ “thiên nhiên” thành các thánh hữu (xin xem Mô Si A 3:19) nhờ ân điển chuộc tội của Đấng Ky Tô và trở nên được xưng công bình lẫn được thánh hóa—vô tội và không tì vết—trước mặt Thượng Đế (xin xem Giáo Lý và Giao Ước 20:29–31; 3 Nê Phi 27:16–20).
Đoạn trích dẫn này từ “Sự Phục Hồi Phúc Âm Trọn Vẹn của Chúa Giê Su Ky Tô: Bản Tuyên Ngôn Kỷ Niệm Hai Trăm Năm cùng Thế Giới,” của Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn và Hội Đồng Mười Hai Vị Sứ Đồ, diễn tả một phần tóm lược phù hợp:
“Chúng tôi tuyên bố rằng Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Giê Su Ky Tô, được tổ chức vào ngày 6 tháng Tư năm 1830, là Giáo Hội thời Tân Ước của Đấng Ky Tô đã được phục hồi. Giáo Hội này được neo chặt nơi cuộc sống hoàn hảo của đá góc nhà của chính Giáo Hội là Chúa Giê Su Ky Tô, và trong Sự Chuộc Tội vô hạn và Sự Phục Sinh thật sự của Ngài. Một lần nữa, Chúa Giê Su Ky Tô đã kêu gọi Các Sứ Đồ và đã ban cho họ thẩm quyền của chức tư tế. Ngài mời gọi tất cả chúng ta đến cùng Ngài và Giáo Hội của Ngài, để tiếp nhận Đức Thánh Linh, các giáo lễ cứu rỗi và để có được niềm vui lâu dài.”
