Podcast: Play in new window | Embed
Bài của Grzegorz Pawlik, tín hữu của Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Giê Su Ky Tô tại Subcarpathia, Ba Lan
Vào ngày 9 tháng Mười Một năm 1989, một viên chức chính phủ Đông Đức đã loan tin nhầm rằng có hiệu lực ngay lập tức, các công dân ở thủ đô được phép đi qua Bức Tường Berlin. Một vài phút sau đó, những người lính biên phòng thường xuyên chán nản đã không có lựa chọn nào khác ngoài việc cho phép đám đông lớn và ngày càng đông hơn rời khỏi lãnh thổ nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức.
Bạn thân của tôi, Jakub Górowski, và tôi—lúc đó vẫn còn ở tuổi niên thiếu—đã chứng kiến trên tivi từ nhà của chúng tôi ở Ba Lan phép lạ đang diễn ra bất ngờ. Thế giới thực sự đang xảy ra một sự thay đổi lớn lao chứ không phải là tàn phá. Tinh thần tự do và hy vọng tràn ngập trái tim của hàng triệu người.
Đối với Jakub và tôi, mơ ước của chúng tôi là một ngày nào đó sẽ chuyển từ Ba Lan sang miền Tây—Đan Mạch, Thụy Điển, Tây Đức. Chúng tôi được truyền cảm hứng từ phim ảnh và các chương trình truyền hình Mỹ. Bộ phim truyện ưa thích của tôi là The Wonder Years (Những Năm Tháng Tuyệt Vời). Tôi thích bầu không khí của cuộc sống ngoại ô Hoa Kỳ.
Tôi không nghĩ có ai ở cả hai bên Bức Màn Sắt dự đoán là cuộc Chiến Tranh Lạnh sẽ kết thúc. Nhưng Cha Thiên Thượng đã có một kế hoạch khác. Chúng tôi không hề biết rằng vào năm 1975, Chủ Tịch Spencer W. Kimball (1895–1985) đã mời Các Thánh Hữu Ngày Sau “tham gia vào một lời cầu khẩn nghiêm túc liên tục lên Chúa cầu xin Ngài mở cửa các quốc gia, và làm mềm lòng các vị vua và các nhà cai trị để cuối cùng những người truyền giáo có thể vào được tất cả mọi vùng đất và giảng dạy phúc âm.”1
Hai năm sau đó, Chủ Tịch Kimball đã đến thăm Warsaw, Ba Lan. Một buổi sáng, khi cùng đi với một nhóm nhỏ các cộng sự của ông, trong đó có Anh Cả Russell M. Nelson, Chủ Tịch Kimball ra khỏi khách sạn của ông, đi ngang qua Mộ Chiến Sĩ Vô Danh và đi vào Công Viên Saski. Cách vòi phun nước lớn mà ngày nay vẫn còn ở đó, ông đã quỳ xuống và tái cung hiến nước Ba Lan cho việc thuyết giảng phúc âm.
Tiếp theo đó là một thập kỷ bất ổn và biểu tình rầm rộ. Trong khi những người lớn không tin tưởng và phản đối các nhà lãnh đạo chính trị, nhiều người trẻ tuổi nghi ngờ một số tiêu chuẩn, truyền thống, và thái độ của cha mẹ họ. Jakub bạn tôi và tôi cảm thấy vỡ mộng với Ky Tô giáo vì chúng tôi hiểu nó. Anh ấy mất hứng thú với tôn giáo nói chung, trong khi tôi bị thu hút vào những triết lý bắt nguồn từ Châu Á.
Vào tháng Tư năm 1990, Jakub và tôi quá giang xe sang Áo. Ở Vienna, chúng tôi gặp hai cô gái hiền lành đứng trên vỉa hè của một con đường đông đúc. Một người đang cầm quyển Sách Mặc Môn bằng tiếng Ba Lan. Cô ấy nói với chúng tôi về sự hiện đến của Chúa Giê Su với dân chúng ở Châu Mỹ thời xưa và hứa sẽ gửi qua bưu điện quyển sách đó đến nhà chúng tôi nếu chúng tôi đưa cho cô ấy địa chỉ. Chúng tôi còn mở quyển sổ địa chỉ của mình ra và ghi xuống địa chỉ của nhiều bạn bè của mình. Chúng tôi nghĩ họ sẽ rất bất ngờ khi nhận được một món quà.
Vài tháng sau, Phái Bộ Truyền Giáo Poland Warsaw được thành lập, và bốn người truyền giáo đã đến thành phố chúng tôi. Về sau, tôi biết được là một số lớn những người mà chúng tôi “giới thiệu”—địa chỉ của bạn bè chúng tôi—đã đóng một vai trò then chốt trong quyết định để cho thành phố của chúng tôi được mở cửa cho những người truyền giáo. Vài tháng sau, tôi rất ngạc nhiên khi Jakub nói với tôi rằng hai người truyền giáo “Mặc Môn” đã đến gặp anh ấy và rằng anh ấy đã quyết định gia nhập giáo hội của họ.
Tôi thấy tổn thương trước tuyên bố của anh ấy. Tôi đã cố gắng suốt bao năm nay để cho anh ấy quan tâm đến tôn giáo mà không thành công. Làm sao mà những người lạ từ một quốc gia khác lại có thể bỗng nhiên khiến anh ấy cải đạo được chứ? Tôi quyết tâm đối mặt với họ và cho Jakub thấy họ không có cơ hội nào khi tranh luận với tôi.
Tôi Cảm Thấy Một Điều Gì Đó Đặc Biệt
Khi tôi nhìn thấy hai người truyền giáo trẻ tuổi đứng trước ngưỡng cửa căn hộ của cha mẹ tôi, tôi đã quên bẵng về mục tiêu của mình để chứng tỏ là họ sai. Họ rất vui vẻ và vui tính. Họ hỏi tôi rất nhiều câu hỏi về bản thân tôi và niềm tin của tôi. Họ tôn trọng niềm tin vững chắc của tôi. Về sau họ cho tôi biết rằng trong lần gặp mặt đầu tiên đó với một thanh niên ngạo mạn tóc dài, mặc quần jean rách, đang hút thuốc lá, họ khó tưởng tượng được rằng tôi lại quan tâm đến việc trở thành một tín đồ của Chúa Giê Su Ky Tô. Nhưng tôi đã cảm thấy một điều gì đó đặc biệt khi ở bên cạnh họ, và tôi rất thích thú rằng Giáo Hội của họ là giáo phái Ky Tô giáo duy nhất mà tôi biết tin vào cuộc sống tiền dương thế.
Tôi cũng rất ấn tượng với chứng ngôn của họ và niềm tin vững chắc của Jakub và Robert Żelewski, người bạn mới của anh ấy trong Giáo Hội. Robert là một nhà tâm lý học, một người thông minh nhưng rất thực tế, mà những hiểu biết sâu sắc và kinh nghiệm của anh đã củng cố mối quan tâm của tôi về tôn giáo Thánh Hữu Ngày Sau.
Mọi điều các anh cả, Jakub, và Robert nói với tôi đều hấp dẫn, đặc biệt là giáo lý về kế hoạch cứu rỗi, bắt đầu với cuộc sống tiền dương thế và kết thúc với ba đẳng cấp vinh quang. Nhưng tôi chẳng thấy có ích gì khi gia nhập Giáo Hội cho đến khi tôi có thể hiểu trọn vẹn hơn các niềm tin độc đáo của họ. Sự hiểu biết của tôi về Ky Tô giáo là thời xưa, Thượng Đế đã thực hiện các phép lạ, gửi xuống các thiên sứ, và kêu gọi các vị tiên tri, nhưng tất cả những điều này đều thuộc về thời kỳ kinh thánh. Một khi Kinh Thánh đã được hoàn tất, nhân loại không còn cần đến các phép lạ và sự mặc khải nữa vì thánh thư có chứa đựng tất cả những gì chúng ta cần biết.
Một bước ngoặt đã đến trong khi chúng tôi thảo luận về Sự Đại Bội Giáo và Sự Phục Hồi phúc âm trọn vẹn qua Tiên Tri Joseph Smith. Tôi đã nhận thấy rằng các niềm tin của họ nhất quán với Kinh Thánh hơn là lời tuyên bố rằng Kinh Thánh đã thay thế các vị tiên tri và sự mặc khải. Tôi đã cảm thấy niềm vui thực sự khi tôi nhận ra rằng mình có thể đang sống trong “thời kỳ kinh thánh” hiện đại.
Tôi đã sẵn sàng cầu vấn Thượng Đế một cách chân thành để có sự mặc khải cá nhân, nhưng câu trả lời đã không đến. Cuối cùng, tôi nói: “Thưa Cha Thiên Thượng, nếu Ngài đã kêu gọi Joseph Smith làm vị tiên tri của Ngài, thì con sẽ vâng theo mọi lệnh truyền Ngài mặc khải qua ông ấy.” Rồi câu trả lời đã đến với tấm lòng và tâm trí tôi một cách chắc chắn, và tôi biết rằng Thượng Đế đã phục hồi phúc âm trọn vẹn và rằng phúc âm đó được tìm thấy trong Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Giê Su Ky Tô.
Jakub chịu phép báp têm vào ngày 3 tháng Mười Một năm 1990, và tiếp tục trung tín đến khi qua đời trong một tai nạn leo núi bi thảm hai thập niên sau đó. Tôi gia nhập Giáo Hội vào ngày 11 tháng Một năm 1991, quyết tâm sẽ phục vụ truyền giáo. Robert được kêu gọi làm chủ tịch đầu tiên ở địa phương của chi nhánh chúng tôi và lái xe chở tôi đến tận Freiburg, Đức, để tôi có thể tiếp nhận lễ thiên ân của mình. Trong lần phỏng vấn cuối cùng với anh, tôi đã hứa là sẽ trở lại Ba Lan sau khi phục vụ trong Phái Bộ Truyền Giáo Illinois Chicago để sử dụng kinh nghiệm truyền giáo của tôi nhằm củng cố Giáo Hội trong quốc gia của chúng tôi.
Hai năm sau đó, vị chủ tịch phái bộ truyền giáo của tôi thuyết phục tôi rằng tôi nên có được học vấn ở Hoa Kỳ, tại trường Brigham Young University. Nhưng tôi không bao giờ quên lời hứa của mình với Robert.
Sau khi kết hôn vào năm 2000, tôi đã chuyển về lại Ba Lan cùng vợ tôi, mà vào năm 1988 đã đóng một vai phụ trong tập sáu của bộ phim truyền hình The Wonder Years. Chúng tôi tham dự các buổi nhóm họp Giáo Hội ở Krakow, nuôi dạy hai đứa con trai và giữ liên lạc thường xuyên với hai đứa con lớn hơn của chúng tôi. Con trai lớn hơn của chúng tôi mới cho biết là nó đã quyết định sẽ phục vụ truyền giáo toàn thời gian.
Vào mùa hè năm 2021, tôi đưa gia đình tôi đến Berlin, nơi tôi đã cho họ thấy vị trí trước đây của bức tường. Nó không còn ngăn cản các tôi tớ của Thượng Đế chia sẻ sứ điệp về Sự Phục Hồi với người dân ở Đông Âu nữa. Các phép lạ của Thượng Đế vẫn tiếp tục trong thời kỳ chúng ta.